Trấn Thành tung bằng chứng, nói không giành vé, chỉ ra 1 câu sai sự thật, đối phương vào 3 mặt 1 lời
3 | 0 Thảo luận | Chia sẻ
Bỏng ngô thường được xem là một thức ăn nhẹ, một thứ thực phẩm lành mạnh. Nhưng ẩn chứa đằng sau món bỏng ngô mà chúng ta vẫn thường thưởng thức lại là biết bao nhiêu câu chuyện li kì.
Có rất nhiều truyền thuyết, những câu chuyện cổ tích kể về bỏng ngô. Theo một truyền thuyết kể lại rằng vào một mùa hè nọ trời quá nóng , thời tiết nóng đến nỗi những hạt ngô ở trên cánh đồng ngô bắt đầu nổ bung ra và bay ra khỏi bắp của chúng. Lũ bò và lợn tưởng rằng đó là cơn bão tuyết lớn và chúng bắt đầu bỏ chạy khỏi các trang trại. Thực ra đó chỉ là những hạt ngô được nổ bung ra mà bây giờ chúng mình vẫn thường gọi là bỏng ngô. Trong những câu chuyện cổ tích của những người da đỏ ở Mỹ, truyền thuyết của bỏng ngô được nhắc tới như một câu chuyện vô cùng linh thiêng. Họ cho rằng: khi hạt bỏng ngô nổ bung cũng là lúc các linh hồn được siêu thoát vào không trung. Đó là những câu chuyện được truyền miệng từ đời này sang đời khác, và cho đến ngày nay, những đứa trẻ thậm chí cả người lớn vẫn tin vào những câu chuyện đó. Thế còn nguồn gốc thật sự của bỏng ngô thì sao?
Đối với những người đam mê điện ảnh, việc mua bỏng ngô vào rạp chiếu phim chẳng có gì lạ. Thế nhưng ít ai biết rằng bỏng ngô từng bị cấm đem vào rạp chiếu phim và nó đã phải trải qua nhiều thăng trầm trước khi trở thành vị cứu tinh của các rạp phim ngày nay.
Ra đời trước công nguyên
Khi nói tới bỏng ngô thì lịch sử lâu đời nhất của món ăn này được tìm thấy trong một hang dơi (một số sách có ghi là những tư liệu này được viết vào khoảng 3000 năm trước) của khu vực miền Tây bang New Mexico vào năm 1948 và 1950 bởi một nhà nhân loại học tên là Herbert Dick và một nhà thực vật học tên là Earle Smith, những sinh viên đã tốt nghiệp đại học Harvard. Họ phát hiện ra một lớp rác thải cũng như các loại chất thải đã được tồn tại cách đây hơn 2000 năm. Trong đống rác có hơn 766 bắp ngô, 125 hạt ngô đã bị tách rời, 8 mẩu lõi ngô, 10 vỏ ngô, và một số râu ngô. Càng đào sâu họ càng tìm thấy nhiều bắp ngô nguyên thủy và nhỏ hơn, cho đến khi đào đến đáy họ phát hiện ra một bắp ngô nhỏ có một số hạt ngô bị nứt ra và gần như đã đứt lìa khỏi bắp. Những hạt ngô này được bảo quản quá tốt thế nên chúng vẫn có khả năng được làm nổ bung ra. Thực tế là, họ đã lấy vài hạt ngô chưa được nổ và cho chúng vào trong một bát đựng đầy dầu ăn nóng để chứng tỏ rằng chúng vẫn có thể nổ được. Họ đã giám định carbon những mẫu vật này và phát hiện ra chúng có niên đại vào khoảng 5600 năm tuổi.
Công cuộc khám phá ra món bỏng ngô ngốn một khoảng thời gian không nhỏ, người ta liên tục khám phá được những chứng cứ liên quan đến sự xuất hiện của bỏng ngô. Và người ta đã nghiên cứu về quá trình xuất hiện cũng như phổ biến của món ăn này suốt từ thế kỉ 4 Trước Công nguyên đến thế kỉ 20 và cho tới tận ngày nay khi món bỏng ngô đã trở nên quen thuộc và vô cùng nổi tiếng.
Bằng cách rang những hạt ngô khiến chúng nổ ra do nước và tinh bột bị nén trong hạt được giải phóng khi tiếp xúc với nhiệt độ cao, bỏng ngô thời xưa thường được coi là món ăn giải trí. Những bằng chứng khảo cổ cho thấy khoảng 3.600 năm trước, các thổ dân Mỹ đã cho ngô nổ trong ấm đất sét có lỗ nhỏ trên nắp.
Sự xâm lấn của người Phương Tây tại Châu Mỹ khiến họ tiếp xúc được với ngô và bỏng ngô. Do vị khá nhạt nên những người phụ nữ nội trợ đã trộn thêm bơ đường vào món bỏng ngô cho bữa sáng. Tuy nhiên đến thời điểm này bỏng ngô vẫn chỉ là loại thức ăn phụ không mấy phổ biến. Thậm chí với sự rườm rà, bỏng ngô cũng chẳng phải món ăn ưa thích trên phố của người dân.
Máy nổ bỏng ngô được phát minh bởi gia đình nhà Charles Cretors ở Chicago, Illinois vào năm 1885. Để thử nghiệm chiếc máy của ông, ông phải vận hành nó ở trên phố và phục vụ thử một vài khách hàng. Ông đã bắt đầu sản xuất những loại máy này và bắt đầu lưu hành nó vào ngày 2 tháng 12 năm 1885. Cho tới thời điểm đó, những người làm bỏng ngô thường hay ngồi trước những cửa hàng siêu thị lớn để thu hút khách hàng. Chiếc máy làm bỏng ngô lớn, chậm chạp và cồng kềnh này sử dụng xăng để đốt nóng. Những người bán bỏng ngô dạo thường đi tới những nơi có đám đông như những hội chợ, công viên và sau đó thực hiện đúng quy trình đốt nóng để sản xuất bỏng ngô. Quy trình này vẫn được tiếp tục cho đến những năm 1929 - 1939 những năm trì trệ của nền kinh tế Mỹ. Ngày nay, vẫn còn rất nhiều nơi sản xuất bỏng ngô bằng những chiếc máy do nhà Cretors chế tạo, rất có thể ngày mai khi bạn ra ngoài đi xem phim và mua một túi bỏng ngô thì hãy nhớ rằng chiếc máy làm ra chúng đã được phát minh từ hai thế kỉ trước.
Việc phát minh ra máy làm bỏng ngô càng khiến giá thành loại đồ ăn thơm mùi bơ đường này hấp dẫn hơn nữa. Thế nhưng, bỏng ngô vẫn mãi chỉ là đồ ăn vặt làng nhàng của người bán hàng rong, thậm chí bị cấm mang vào các rạp hát. Dù chúng xuất hiện ở các rạp xiếc, lễ hội, cùng nhiều hoạt động giải trí nhưng tuyệt nhiên không hề có trong các rạp hát hay rạp chiếu phim thời kỳ đầu. Vậy điều gì đã làm thay đổi tất cả?
Từ hàng cấm đến vị cứu tinh
Trước khi cuộc Đại khủng hoảng thập niên 1930 diễn ra, bỏng ngô là mặt hàng bị cấm gắt gao nhất tại các rạp phim hay rạp hát. Trên thực tế trước khi bộ phim đầu tiên được chiếu vào năm 1896, rạp hát là nơi giải trí chính của tầng lớp thượng lưu.
Bởi bối cảnh biểu diễn cần sự tập trung của khán giả cũng như văn hóa thượng lưu thời đó, việc ăn vặt những thứ như bỏng ngô được cho là bất lịch sự. Thậm chí những đồ ăn vặt khác cũng không được mang vào khi xem trình diễn.
Vào tháng 4/1896, bộ phim đầu tiên được trình chiếu rộng rãi trước công chúng ở thành phố New York sử dụng thiết bị từ nhà phát minh Thomas Edison. Năm 1902, rạp chiếu phim có chạy điện đầu tiên được xây dựng và đây cũng là rạp phim đầu tiên chỉ chiếu phim chứ không lẫn các chương trình biểu diễn khác.
Tại thời điểm này, tất cả các bộ phim đều không có tiếng và chúng đòi hỏi những người có kiến thức, trình độ đọc được các dòng chữ phiên dịch hoặc hiểu được nội dung truyền tải. Việc đến rạp phim thời này chủ yếu dành cho tầng lớp quý tộc có tri thức và đương nhiên là phải cấm bỏng ngô hay những đồ ăn vặt gây mất tập trung.
Những tác phẩm điện ảnh thời kỳ đầu thường là phim câm với phiên dịch và người chơi đàn, nên việc ăn uống trong rạp bị coi là mất lịch sự.
Những tiếng ăn uống sẽ ảnh hưởng đến mọi người trong việc xem phim cũng như đọc phiên dịch. Ngoài ra, chủ rạp phim cũng không muốn cơ sở của họ bị vấy bẩn bởi đống rác do đồ ăn vặt gây ra, nhất là tại những nơi có sự tụ tập đông đảo của tầng lớp thượng lưu.
Vào năm 1927, phim có tiếng ra đời và bất kể già trẻ giàu nghèo đều có thể thưởng thức bộ phim mà chẳng cần biết họ biết chữ hay biết đọc hay không. Tận dụng cơ hội này, hàng loạt quán bán bỏng ngô xếp hàng trước cửa các rạp phim để bán đồ ăn cho tầng lớp lao động hay trung lưu muốn vào xem phim.
Dẫu vậy, các rạp phim vẫn cấm bỏng ngô do muốn giữ vệ sinh cũng như tư tưởng "thượng lưu" tránh làm ồn trong rạp. Thậm chí người vào xem còn bị kiểm tra xem có giấu bỏng ngô hay không.
Mọi chuyện chỉ bắt đầu chuyển biến khi Đại khủng hoảng 1930 diễn ra. Trong khi các loại đồ ăn vặt đều tăng giá thì bỏng ngô lại vẫn rẻ do lượng cung lớn và quy trình sản xuất vô cùng đơn giản. Điều này khiến những người bán bỏng ngô thu lãi lớn.
Trái ngược lại, các rạp phim lại phải đóng cửa hàng loạt khi ngay cả giới thượng lưu cũng tiết kiệm tiền trong Đại khủng hoảng. Nhận thức được nếu không tìm đường sống, ngành chiếu phim tại Mỹ sẽ bị xóa sổ nhanh chóng và việc những người bán hàng rong bỏng ngô đã thu hút được sự chú ý của một số ông chủ.
Câu chuyện bắt đầu khi R.J.McKenna, một giám đốc của chuỗi 66 rạp phim tại Mỹ dù rất ghét bỏng ngô nhưng vẫn quyết định cho bán tại hành lang rạp chiếu nhằm thu lợi nhuận.
Năm 1938, khi McKenna quyết định cho bán bỏng ngô trong rạp chiếu phim, lợi nhuận bán vé của rạp sau khi trừ các chi phí gần như bằng 0 nhưng bù lại, họ kiếm được gần 200.000 USD tiền lãi từ bán bỏng ngô. Con số này nếu tính cả lạm phát sẽ tương đương 3,5 triệu USD hiện nay.
Hiểu được mình đã phát hiện ra mỏ vàng, McKenna quyết định giảm giá vé từ 50 cent xuống còn 15 cent để thu hút thêm khách đến xem phim, bù lại rạp sẽ kiếm lời từ bán bỏng ngô và đồ uống. Kể từ đây, ngành kinh doanh chiếu phim tại Mỹ bắt đầu bán đủ mọi loại đồ ăn vặt và đồ uống nhằm thu lợi nhuận. Việc hạ giá vé cũng khiến người dẫn đi xem phim nhiều hơn và gián tiếp làm tăng lợi nhuận cho ngành.
Tuy nhiên, bỏng ngô vẫn chỉ là một trong số vô vàn đồ ăn vặt thời kỳ này, nhất là khi Đại khủng hoảng đã qua và giá cả sinh hoạt dần hồi phục. Vậy tại sao chúng có thể đánh bại những thứ đồ ăn vặt khác để trở thành biểu tượng của rạp phim?
Vươn lên nhờ chiến tranh
Trong thời kỳ Thế chiến II, chuỗi cung ứng đường cho nước Mỹ bị gián đoạn. Chính phủ cũng ưu tiên cung cấp đường cho quân đội, dẫn đến tình trạng thiếu đường, kẹo hay bất cứ đồ ngọt nào trên những quầy hàng.
Hệ quả là các rạp phim giờ đây chỉ còn bỏng ngô là mặt hàng sáng giá duy nhất bán cho khán giả. Đến khi Thế chiến II kết thúc, người Mỹ đã tiêu thụ gấp 3 lần số bỏng ngô so với trước chiến tranh và đồ ăn vặt này chính thức trở thành biểu tượng của các rạp phim. Thậm chí khi truyền hình phát triển vào thập niên 1950, ngành bỏng ngô tiếp tục bùng nổ 500% so với trước đây do các hộ gia đình mua đồ ăn vặt về nhà xem tivi nhiều hơn.
Dẫu vậy, khoảng 50% số bỏng ngô tiêu thụ tại Mỹ đến từ các rạp phim và mô hình kinh doanh này tồn tại cho đến tận ngày nay. Suy cho cùng, rạp phim có thể hưởng 100% doanh số từ bán bỏng ngô lẫn đồ uống nhưng họ lại chỉ có thể nhận khoảng 40% doanh số bán vé do phải chia với nhà sản xuất, phân phối phim.
Ngày nay, món bỏng ngô được chế biến thành nhiều kiểu khác nhau và vẫn được giới trẻ vô cùng yêu thích. Người ta có thể cho một chút bơ mặn, ngọt tùy khẩu vị để tạo nên những món bắp rang bơ ngon tuyệt và nhâm nhi mỗi khi thưởng thức một bộ phim truyền hình. Bạn có thể tìm thấy món bỏng ngô ở nhiều nơi và vì nó đã vô cùng phổ biến nên giá cả của chúng cũng khá vừa túi tiền. Tất nhiên, bạn không nên ăn quá nhiều bởi ăn cái gì nhiều quá cũng không tốt cho sức khỏe lắm đâu đấy nhé!
Thêm vào đó lợi nhuận từ bỏng ngô là nguồn thu chính giúp các rạp phim duy trì hoạt động, bao gồm chi phí đèn đóm, điều hòa, nhân công... Bởi vậy nếu bạn là người mê phim ảnh và muốn các rạp phim vẫn hoạt động được thì không phải vé xem phim mà chính bỏng ngô là thứ nên mua.
Đào, Phở Và Piano chiếm sóng, "đá" Mai ra khỏi rạp, Tuấn Hưng chia sẻ gây chú ý Phi Yến10:31:48 21/02/2024Đào, Phở và Piano đang làm mưa làm gió trên mạng xã hội, đến mức nhiều khán giả phải xếp hàng chờ đợi để có thể đặt vé. Có rạp phim đã chuyển 50% suất chiếu Mai cho tác phẩm này.
3 | 0 Thảo luận | Chia sẻ
2 | 0 Thảo luận | Chia sẻ
4 | 0 Thảo luận | Chia sẻ
4 | 0 Thảo luận | Chia sẻ
1 | 0 Thảo luận | Báo cáo